1. Môn Toán
  2. giải toán bằng sơ đồ ven
giải toán bằng sơ đồ ven
Thể Loại: TIPS Giải Toán 10
Ngày đăng: 28/06/2018

giải toán bằng sơ đồ ven

Quý thầy cô và học sinh đang tham khảo giải toán bằng sơ đồ ven, bộ đề thi được xây dựng bám sát chuẩn môn toán cập nhật nhất. Cấu trúc đề bảo đảm độ phủ kiến thức đồng đều, mức độ câu hỏi được cân chỉnh từ nhận biết đến vận dụng cao, phù hợp kiểm tra toàn diện năng lực. Hãy khai thác triệt để tài liệu này để đánh giá chính xác trình độ hiện tại và tối ưu chiến lược luyện thi của bạn.

Bài viết hướng dẫn phương pháp giải toán bằng cách sử dụng sơ đồ Ven (được xây dựng bởi nhà toán học John Venn).

Phương pháp giải toán bằng sơ đồ Ven: Gồm 3 bước:

+ Bước 1: Chuyển bài toán về ngôn ngữ tập hợp.

+ Bước 2: Sử dụng sơ đồ Ven để minh họa các tập hợp.

+ Bước 3: Dựa vào sơ đồ Ven ta thiết lập được đẳng thức hoặc phương trình, hệ phương trình, từ đó tìm được kết quả bài toán.

Ví dụ minh họa

Ví dụ 1
: Mỗi học sinh của lớp 10A đều biết chơi cờ tướng hoặc cờ vua, biết rằng có \(25\) em biết chơi cờ tướng, \(30\) em biết chơi cờ vua, \(15\) em biết chơi cả hai. Hỏi lớp 10A có bao nhiêu em chỉ biết chơi cờ tướng? Bao nhiêu em chỉ biết chơi cờ vua? Sĩ số lớp là bao nhiêu?

giải toán bằng sơ đồ ven

Dựa vào sơ đồ Ven ta suy ra số học sinh chỉ biết chơi cờ tướng là \(25-15=10\).

Số học sinh chỉ biết chơi cờ vua là \(30-15=15\).

Do đó ta có sĩ số học sinh của lớp 10A là \(10+15+15=40\).

Ví dụ 2: Lớp 10B có \(45\) học sinh, trong đó có \(25\) em thích môn Văn, \(20\) em thích môn Toán, \(18\) em thích môn Sử, \(6\) em không thích môn nào, \(5\) em thích cả ba môn. Hỏi số em thích chỉ một môn trong ba môn trên là bao nhiêu?

giải toán bằng sơ đồ ven

Gọi:

\(a,b,c\) theo thứ tự là số học sinh chỉ thích môn Văn, Sử, Toán.

\(x\) là số học sịnh chỉ thích hai môn là Văn và Toán.

\(y\) là số học sịnh chỉ thích hai môn là Sử và Toán.

\(z\) là số học sịnh chỉ thích hai môn là Văn và Sử.

Ta có số em thích ít nhất một môn là \(45-6=39\).

Dựa vào sơ đồ Ven ta có hệ phương trình: \(\left\{ \begin{array}{l}

a + x + z + 5 = 25(1)\\

b + y + z + 5 = 18(2)\\

c + x + y + 5 = 20(3)\\

x + y + z + a + b + c + 5 = 39(4)

\end{array} \right.\)

Cộng vế với vế \((1)\), \((2)\), \((3)\) ta có: \(a+b+c+2\left( x+y+z \right)+15=63\) \((5).\)

Từ \((4)\) và \((5)\) ta có: \(a+b+c\) \(+2\left( 39-5-a-b-c \right)+15=63\) \(\Leftrightarrow a+b+c=20.\)

Vậy chỉ có \(20\) em thích chỉ một môn trong ba môn trên.

Ví dụ 3: Trong lớp 10C có \(16\) học sinh giỏi môn Toán, \(15\) học sinh giỏi môn Lý và \(11\) học sinh giỏi môn Hóa. Biết rằng có \(9\) học sinh vừa giỏi Toán và Lý, \(6\) học sinh vừa giỏi Lý và Hóa, \(8\) học sinh vừa giỏi Hóa và Toán, trong đó chỉ có \(11\) học sinh giỏi đúng hai môn. Hỏi có bao nhiêu học sinh của lớp:

a. Giỏi cả ba môn Toán, Lý, Hóa.

b. Giỏi đúng một môn Toán, Lý hoặc Hóa.

giải toán bằng sơ đồ ven

Gọi:

\(T,L,H\) lần lượt là tập hợp các học sinh giỏi môn Toán, Lý, Hóa.

\(B\) là tập hợp học sinh giỏi đúng hai môn.

Theo giả thiết ta có: \(n\left( T \right) = 16\), \(n\left( L \right) = 15\), \(n\left( H \right) = 11\), \(n\left( B \right) = 11\), \(n\left( {T \cap L} \right) = 9\), \(n\left( {L \cap H} \right) = 6\), \(n\left( {H \cap T} \right) = 8.\)

a. Xét tổng \(n(T \cap L)\) \( + n(L \cap H)\) \( + n(H \cap T)\) thì mỗi phần tử của tập hợp \(T \cap L \cap H\) được tính ba lần do đó ta có: \(n(T \cap L)\) \( + n(L \cap H)\) \( + n(H \cap T)\) \( – 3n\left( {T \cap L \cap H} \right)\) \( = n\left( B \right).\)

Hay \(n\left( {T \cap L \cap H} \right)\) \( = \frac{1}{3}\left[ {n(T \cap L) + n(L \cap H)} \right.\) \(\left. { + n(H \cap T) – n\left( B \right)} \right] = 4.\)

Suy ra có \(4\) học sinh giỏi cả ba môn Toán, Lý, Hóa.

b. Xét \(n\left( {T \cap L} \right) + n\left( {L \cap T} \right)\) thì mỗi phần tử của tập hợp \(T \cap L \cap H\) được tính hai lần do đó số học sinh chỉ giỏi đúng môn Toán là: \(n\left( T \right)\) \( – \left[ {n\left( {T \cap L} \right) + n\left( {H \cap T} \right) – n\left( {T \cap L \cap H} \right)} \right]\) \( = 16 – \left( {9 + 8 – 4} \right) = 3.\)

Tương tự, ta có:

Số học sinh chỉ giỏi đúng môn Lý: \(n\left( L \right)\) \( – \left[ {n\left( {T \cap L} \right) + n\left( {L \cap H} \right) – n\left( {T \cap L \cap H} \right)} \right]\) \( = 15 – \left( {9 + 6 – 4} \right) = 4.\)

Số học sinh chỉ giỏi đúng môn Hóa: \(n\left( H \right)\) \( – \left[ {n\left( {H \cap T} \right) + n\left( {L \cap H} \right) – n\left( {T \cap L \cap H} \right)} \right]\) \( = 11 – \left( {8 + 6 – 4} \right) = 1.\)

Suy ra số học sinh giỏi đúng một môn Toán, Lý hoặc Hóa là: \(3 + 4 + 1 = 8.\)

Bạn đang khám phá nội dung giải toán bằng sơ đồ ven trong chuyên mục giải bài tập toán 10 trên nền tảng môn toán. Được biên soạn chuyên sâu và bám sát chặt chẽ chương trình sách giáo khoa hiện hành, bộ bài tập toán trung học phổ thông này cam kết tối ưu hóa toàn diện quá trình ôn luyện, củng cố kiến thức Toán lớp 10 cho học sinh THPT, thông qua phương pháp tiếp cận trực quan và mang lại hiệu quả học tập vượt trội, tạo nền tảng vững chắc cho các cấp học cao hơn.
Ghi chú: Quý thầy, cô giáo và bạn đọc có thể chia sẻ tài liệu trên MonToan.com.vn bằng cách gửi về:
Facebook: MÔN TOÁN
Email: montoanmath@gmail.com

đánh giá tài liệu

5/5
( đánh giá)
5 sao
100%
4 sao
0%
3 sao
0%
2 sao
0%
1 sao
0%